Khi bạn gặp việc khẩn cấp cần xem mệnh hoặc quẻ để tiên liệu sự việc hãy gọi/sms số 0833 139 692 hoặc 036 313 9192 ; E-mail: dongquangus@gmail.com để được tư vấn

Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2014

Thiên Địa Bĩ

12. QUẺ THIÊN ĐỊA BĨ (Phủ)
Trên là Càn (trời) dưới là Khôn (đất)
 Thiên Địa Bĩ

12. QUẺ THIÊN ĐỊA BĨ (bĩ pỉ): (Tháng bảy). Thời bế tắc trái với quẻ Thái. Nên ở ẩn, đừng làm gì cả.

; trên là Càn (trời), dưới là Khôn (đất).

Trong vũ trụ không có gì là thông hoài được, hết thông thì tới bế tắc, cùng, cho nên sau quẻ Thái tới quẻ Bĩ.

Thoán từ:

之 匪 ,   君 子 ,  大 往 小 來

Bĩ    chi    phỉ  nhân,  bất   lợi   quân  tử    trinh,  đại  vãng tiểu   lai. 

Dịch: Bĩ không phải đạo người (phi nhân nghĩa như phi nhân đạo), vì nó không  lợi cho đạo chính của quân tử (Tượng của nó là) cái lớn (dương) đi  mà cái nhỏ (âm) lại.

Giảng: Bĩ trái với Thái. Thái thì dương ở dưới thăng lên, giao với âm ở trên giáng xuống; bĩ thì dương ở trên đi lên, âm ở dưới đi xuống không giao nhau. Âm dương không giao nhau thì bế tắc, ở đạo người như vậy mà ở vạn vật cũng như vậy. Thời đó không lợi với đạo chính của quân tử, vì dương đi nghĩa là đạo của người quân tử tiêu lần, mà âm lại nghĩa là đạo của tiểu nhân lớn lên.

 Đại tượng truyện - Khuyên: gặp thời bĩ thì người quân tử nên thu cái đức của mình lại (đừng hành động gì cả, riêng giữ các đức của mình) để tránh tai nạn, đừng màng chút lợi danh nào cả. (Quân tử dĩ kiệm đức tị nạn, bất khả vinh dĩ lộc). Nghĩa là nên ở ẩn.

 Gặp thời Truân, thời khó khăn, gian truân, người quân tử nên tập hợp nhau lại mà hành động; còn thời đã bĩ, đã bế tắc cùng cực rồi thì hành động chỉ vô ích, cốt giữ cái đức và cái thân mình thôi.

Hào từ.

1. 初 六: 拔 茅 茹, 以 其 彙, 貞 吉 亨

      Sơ   lục:    Bạt   mao  nhự,    dĩ      kì     vị,     trinh  cát   hanh.

Dịch: Hào 1, âm: Nhổ rễ cỏ mao mà được cả đám, hễ chính thì tốt mà hanh thông.

 Giảng: Hào này rất giống hào 1 quẻ Thái: cũng “bạt mao dĩ kì vị” vì quẻ Thái hào 1 cặp với hai hào trên, quẻ này cũng vậy, cũng có đồng chí, làm việc dễ có kết quả; chỉ khác quẻ thái hào 1 là dương, quân tử, quẻ này hào 1 là âm, tiểu nhân; cho nên quẻ Thái khuyên cứ tiến lên (chính) sẽ tốt; còn quẻ này thì khuyên phải “trinh” chính đáng (trinh – khác nhau ở hai chữ chính và trinh ) thì sẽ tốt và hanh thông.

 Hào 1 quẻ Bĩ là tiểu nhân nhưng mới bước đầu, cái ác chưa hiện rõ, lại ứng hợp với hào 4 ở trên là quân tử, cho nên còn có hy vọng cải hóa được. Ðại tượng truyện bảo: nếu để tâm giúp nước (chí tại quân – quân là vua, là quốc gia) như hào 4 thì sẽ tốt. Như vậy là có ý khuyên tiểu nhân nên đứng vào phe quân tử .


2. 六 二: 包 承, 小 人 吉; 大 人 否,

     Lục  nhị:   Bao   thừa,  tiểu   nhân cát;     đại   nhân   bĩ,   hanh.

Dịch: Hào 2, âm: Tiểu nhân chịu đựng và vâng thuận người quân tử thì tốt: đại nhân (có đức lớn) nên giữ tư cách trong cảnh bế tắc (khốn cùng) thì hanh thông.

 Giảng: Hào này tuy là tiểu nhân, nhưng đắc trung đắc chính, chung quanh là tiểu nhân cả, mà ứng hợp với hào 5 quân tử ở trên, cho nên hào từ khuyên nó nên vâng thuận quân tử thì tốt. Còn kẻ đại nhân được bọn tiểu nhân vâng thuận- vì chúng muốn mua danh - thì cũng đừng theo chúng, cứ giữ khí tiết của mình trong thời khốn cùng, như vậy sẽ hanh thông.

3. 六 三: 包 羞

    Lục  tam:  Bao  tu .

Dịch: Hào 3, âm: Chứa chất sự gian tà, xấu hổ.

 Giảng: Hào này, không trung, không chính, là kẻ đứng đầu bọn tiểu nhân (vì ở trên cùng nội quái Khôn), cho nên rất xấu, đáng ghét.

4. 九 四: 有 命, 无 咎疇 離 祉

    Cửu tứ:      Hữu mệnh,  vô    cữu.   Trù    li     chỉ.

Dịch : Hào 4 dương : có mệnh trời (tức như thời vận đã tới) thì không lỗi mà bạn của mình cũng nhờ cậy mình mà được hưởng phúc.

 Giảng: Hào này ở quá nửa quẻ Bĩ, có mòi sắp hết bĩ rồi, cho nên nói là thời vận đã tới; nó là dương ở trong ngoại quái Càn, chính là người quân tử thực hiện được chí của mình. Bạn của nó, tức hai hào 5, 6 cùng là dương cả - cũng sẽ được hưởng phúc.

5. 九 五: 休 否, 大 人 吉

    Cửu  ngũ:   Hưu   bĩ,    đại   nhân  cát.

        其 亡, 其 亡, 繫 于 苞 桑

                        Kì  vong,    kì    vong,    hệ   vu     bao  tang.

Dịch: Hào 5, dương: Làm cho hết bĩ, đó là đạo tốt của bậc đại nhân (tuy nhiên, phải biết lo). Có thể mất đấy, (đừng quên điều đó thì mới vững như) buộc vào một cụm dâu (cây dâu nhiều rễ, ăn sâu dưới đất, rất khó nhổ).

Giảng: Hào này có đức dương cương trung chính, lại ở vào ngôi chí tôn, trong thời Bĩ sắp hết, cho nên lời đoán là tốt. Những vẫn phải thận trọng, đừng sai sót.

 Theo Hệ từ hạ chương V thì Khổng tử đọc tới hào này, bàn thêm rằng: “Người quân tử khi yên ổn thì không nên quên rằng sẽ có thể nguy; khi vững thì không quên rằng có thể mất, khi trị thì không quên rằng sẽ có thể loạn. Nhờ vậy mà thân an nước nhà giữ vững được”.

6. 上 九:   傾 否, 先 否, 後 喜

Thượng cửu: Khuynh bĩ,  tiên   bĩ,   hậu   hỉ.

Dịch: Hào trên cùng, dương: đánh đổ được cái bĩ, trước còn bĩ, sau thì mừng.

Giảng: Đây là thời cuối cùng của Bĩ mà bĩ cực thì thái lai; người quân tử có tài sẽ dắt cả bạn bè (trỏ hào 4 và 5) mà đánh đổ dược bĩ. Nhưng mới đầu còn phải lo lắng (tiên bĩ) sau mới mừng là bước lên được cảnh Thái rồi.

 Chúng ta để ý: Quẻ Thái, mới đến hào 3, còn thịnh cực mà Dịch đã khuyên phải giữ được chính đáng trong cảnh gian nan (gian trinh); còn quẻ Bĩ, khi mới tới hào 4, mới có mòi sắp hết bĩ mà Dịch đã khuyên là thời đã tới, người quân tử nên thực hiện chí của mình đi. Nghĩa là luôn luôn phải sẵn sàng để nắm ngay lấy cơ hội. 

- Nguyễn Hiến Lê -

* Bản này có sự góp ý điều chỉnh của thầy Tăng Văn Y (Lục Nam, Bắc Giang), thầy Y có bổ sung các chỗ còn thiếu về chữ Hán, "đối chiếu với bản NXB Văn học 1994 có in chữ chép tay của cụ, đối chiếu với Từ điển Hán Việt trên mạng, đánh thêm một số phần,..."