Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2018
Quốc vận VN 2019
Thứ Tư, 12 tháng 12, 2018
Giải đáp dự đoán bóng đá AFFcup 2018 trận chung kết lượt đi VN-Malay
Đao kiếm phạt Mộc, không thể chém Nước. Mùa này mùa Đông Thủy khí vượng, địa lý Malay mưa lớn "ngập" Hỏa (áo đỏ).
Rượu càng uống càng say nên "ngủ trên chiến thắng" ! (Rượu hành Hỏa, càng hăng say càng thua, dẫn sớm 2 bàn nên "say", quá chủ quan, may mà huề vì còn có nhân tài hàng thủ)
"Thủy vượng Mộc trôi", đội VN có tiếng khéo léo (Mộc tính) nhưng đã bị ghi bàn trong cố định.
Đội VN vốn rực rỡ sắc màu, khí thế sôi sục đúng là Dương, nay lại thành Âm, chưa thua đã là may.
"Phàm là binh pháp, khi đem binh đánh chiếm nơi nào thì khi đến đó trước phải thận trọng quan sát theo dõi, rồi căng ra tùy ở địa thế mà dàn quân, sau mới tấn công. Một khi đã tấn công thì phải có bài bản, lúc tiến lúc thoái, lược thao toàn diện... Có vậy mới thắng, ngược lại thì thua, nếu có nhân tài thì ráng cũng được hòa." ----> Mới vào trận chưa lâu đã thắng, vậy là chưa đúng binh pháp nên huề đã là may !
*P/s: Học Dịch không phải để bói bóng đá. Bói bóng đá là để hiểu biết thêm, nâng cao trình độ dự đoán mà thôi !
Thứ Hai, 3 tháng 12, 2018
Chuyện gì xảy ra khi bạn đến thời xui xẻo ?
Nguồn hình minh họa: Google search |
Thứ Năm, 29 tháng 11, 2018
"Sợi dây định mệnh" - phần 2
Nói cho dễ hiểu, nếu sinh ra trong một dòng họ hành nghề trộm cướp, nhất định mệnh của bạn sẽ có yếu tố dễ bị trộm cướp và nghèo đói. Nếu sinh ra trong dòng dõi văn cách, trọng sự học hành, theo đuổi tri thức nhất định mệnh của bạn sẽ có "hạt giống" trí thức, dễ học hành, dễ gần gũi người có học thức mà được mở mang đầu óc. Càng gần huyết thống, sự ảnh hưởng ấy càng rõ. Ai học môn Tứ trụ sẽ thấy được điều đó.
Nguồn hình minh họa: Google search |
Thứ Tư, 28 tháng 11, 2018
"Sợi dây định mệnh"
Nguồn hình minh họa: Google Search. |
Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2018
Dự báo thời tiết bằng quẻ Dịch
Thê tài Tý thủy.. X
Huynh đệ Tuất thổ..
Tử tôn Thân kim. ứng
Phụ mẫu Ngọ hỏa..
Huynh đệ Thìn thổ..
Nguồn hình: windy.com |
Thứ Ba, 20 tháng 11, 2018
Nhân ngày 20-11 trải lòng chuyện nhà giáo
Tại sao vậy ?
Làm người thầy, dạy sai có thể "giết" rất nhiều người mà vẫn "không sao", có khi còn được khen ngợi, kính quý (!) Giả như dạy sai một điều cho 10 học trò, mỗi học trò đem kiến thức ấy ra đời áp dụng sai cho 10 người, rồi mỗi người trong số ấy lại với cái sai ấy mà truyền sang 10 người khác, cứ thế lũy thừa nếu tiếp tục trong thời gian dài. Kết cục tác hại cho cả nghìn, chục nghìn, trăm nghìn người ! Hại một đền một, hại trăm nghìn đền sao xiết ?!
Càng làm thầy giáo càng thấy lo. Không lo mình sai, chỉ lo mình tưởng mình đúng rồi ngày càng sai mà không biết. Nay dạy thấy sai mai còn sửa được, còn cái sai mà mình tưởng đúng rồi không sửa, cứ ngày qua ngày đem ra dạy hết người này tới người kia thì thật là nguy hiểm ! Ai nói nghề giáo bình dị, an nhàn, có hậu chứ mình thấy đây là một nghề sóng gió, hiểm nguy...
Dù nhận thức rằng cuộc sống chưa thể hoàn hảo được nhưng cũng khiến lòng không khỏi suy ngẫm. Vẫn thấy mình chưa xong...
*P/s: Nhân ngày Nhà giáo 20-11 mà không phải nói chỉ nhân ngày này mà bất cứ ngày nào cũng xin chúc các quý thầy cô luôn được mạnh khỏe, Tâm thế bằng an để vượt qua mọi cam go của nghề giáo.
Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2018
Sao TAM KỲ QUÝ NHÂN trong môn Tứ trụ
Nói về sao Tam Kỳ quý nhân là sao Tam Kỳ đi theo 3 dãy can Trên trời là Giáp Mậu Canh;Dưới đất là Ất Bính Đinh.
Trong người là Nhâm Quý Tân tức là tứ trụ mà có 3 can Giáp Mậu Canh thì mới đạt Tam kỳ quý nhân, sao này khó gặp khó xài. Điều kiện để đạt Tam Kỳ là cả 3 Can tại 3 Trụ đều ko bị Tử tuyệt thí dụ Giáp Mậu Canh tứ trụ có Giáp mà sinh mùa Thu là không đc Kim khắc Mộc tử đồng thời Mậu thổ ko bị Ất khắc 3 can này là Can lộ không phải Can tàng.
Điều kiện thứ 3 để Tam kỳ hiệu nghiệm là tại các trụ có Giáp Mậu Canh chẳng hạn phải có sao Thiên đức, Ng đức, Thiên ất phù trợ nữa. Nếu đứng cùng trụ với nọ mà là Đào Hoa, Thiên la địa võng, Bạch hổ thì vô dụng.Về công dụng thì mệnh ai đạt Tam kỳ thuần túy là người tính khí phi phàm, hoài bão to lớn, có lý tưởng ý chí mãnh liệt, nhiều tài năng, như thần vậy, nếu thêm Thiên Ất có mặt thì công danh tột bậc.
(Thiệu)
Sao KIẾP SÁT trong môn Tứ trụ
Lấy chi ngày hoặc chi năm để tra các chi khác trong Tứ trụ .
Thân Tý Thìn thấy Tỵ, Dần Ngọ Tuất thấy Hợi, Tỵ Dậu Sửu thấy Dần, Hợi Mão Mùi thấy Thân. Cách tra kiếp sát lấy chi năm hoặc chi ngày làm chủ, phàm địa chi trong Tứ trụ thấy là có.
Kiếp có nghĩa là đoạt, bị cướp đoạt từ ngoài gọi là kiếp. Kiếp sát tốt thì thông tuệ nhạy bén, tài trí hơn người, không làm chậm việc, lòng rộng bao la, cao minh nhanh nhẹn, vũ đức đều cao. Sinh vượng đi với Quý sát là gặp lộc ngay. Hung sát thì manh tâm độc ác, binh nghiệp thì bị thương, cướp bóc vô tình. Cho nên có câu : " Kiếp sát là vạ không lường, tài lợi danh trường bỗng nhiên mất hết, phải đề phòng tổ nghiệp tiêu tan, vợ con không kéo dài được cuộc sống. Người mà Tứ trụ gặp phùng sinh và kiếp sát sẽ trở thành bậc nho sĩ chấn hưng sự nghiệp cho triều đình, nếu giờ sinh có cả quan Quý thì làm quan to. Kiếp Thân gặp quan tinh là chủ về người nắm binh quyền, có uy và được nhiều người ngưỡng mộ." Kiếp sát chủ về hung, về các tai vạ bệnh tật, bị thương hình pháp, trong Tứ trụ không gặp được là tốt nhất. Nếu nó là kị thần thì Tính cách cường bạo, gian hoạt giảo trá, thường chuốc lấy tai hoạ. Nếu là cát tinh hoặc hỉ thần, dụng thần thì là người hiếu học, cầu tiến bộ, ham lập nghiệp, công việc chuyên cần, quả đoán trong công việc, dễ thành công.
(Thiệu)
Sao THIÊN LA, ĐỊA VÕNG trong môn Tứ trụ
Lấy chi ngày, năm để tra các chi khác trong Tứ trụ .
Chi ngày, năm thìn gặp tị ; chi ngày, năm tị gặp thìn. Chi ngày, năm tuất gặp hợi ; chi ngày, năm hợi gặp tuất.
Cách tra thiên la địa võng, người trụ năm có nạp âm là hỏa mệnh, nam tuất gặp hợi , hợi gặp tuất là thiên la , người trụ năm có nạp âm là thuỷ, thổ mệnh, nữ thìn gặp tị, tị gặp thìn là địa võng. Cũng có cách nói khác cho rằng thìn là thiên la, tuất là địa võng, hoặc cách tra khác lấy chi năm và chi ngày để tra. Lấy chi ngày, năm để tra các chi khác trong Tứ trụ là được , không phân nam nữ cũng không phân biệt nạp âm của năm.
Thiên la có ý nói trời nghiêng về Tây bắc, là đất tuất hợi ; địa võng là đất trũng ở Đông nam, là đất thìn tị. Từ tí đến tị là lúc dương khí đang lên đến khi kết thúc, từ ngọ đến hợi là lúc âm khí đang lên đến khi kết thúc. Nên thìn tị và tuất hợi được lần lượt xem là sáu dương và sáu âm kết thúc. Am dương kết thúc thì mờ ám không rõ như người trong lưới trời. Dương là trời, âm là đất nên tuất hợi là thiên la, thìn tị là địa võng. Thiên la địa võng là hung thân ác sát, là một trong những tiêu chí quan hoạ lao dịch. Nếu trong Tứ trụ thiên la địa võng xuất hiện đồng thời với tam hình là kị thì khi gặp tuế vận thông thường là khó tránh khỏi lưới pháp luật.
(Thiệu)
NGÀY ÂM DƯƠNG LỆCH trong Tứ trụ
Các can chi của trụ ngày mà gặp là có.
Ngày bính tí, ngày đinh sửu, ngày mậu dần, ngày tân mão, ngày nhâm thìn, ngày quý tị, ngày bính ngọ, ngày đinh mùi, ngày mậu thân, ngày tân dậu, ngày nhâm tuất, ngày quý hợi. Âm dương xen kẽ như nam đi ngược lại dương cương, nữ đi ngược lại âm nhu, cho nên hôn nhân không tốt, là tiêu chí tương khắc của khí trường. Ngày sinh gặp phải, nhẹ thì vợ chồng bất hòa, nặng thì ly dị. Trong thực tiễn dự đoán điều này rất chính xác. Có một số cặp vợ chồng khi chưa đến vận khắc cung thê hoặc cung chồng thì chưa có hiện tượng gì, nhưng đó chỉ là tạm thời. Nếu trụ năm là thiên hợp địa chi thì đó lại là trường hợp khác, ở đây chưa bàn đến.
(Thiệu)
Sao ĐÀO HOA trong Tứ trụ
Lấy chi ngày, chi năm để tra các chi khác trong Tứ trụ .
Chi ngày, năm là dần , ngọ, tuất gặp mão. Chi ngày, năm là thân , tý , thìn gặp
dậu . Chi ngày, năm là tị , dậu , sửu gặp ngọ . Chi ngày, năm là hợi ,mão , mùi
gặp tí .
Gặp các trường hợp trên là Tứ trụ có đào hoa. Đào hoa có cát, có hung, những
người đẹp, thông minh, nghệ nhân phần nhiêu đều có. Khi tổ hợp không tốt là chủ
về sự phong lưu trăng gió, quan hệ mờ ám giữa nam nữ.
(Thiệu)
Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2018
Sao LỤC GIÁP KHÔNG VONG trong môn Tứ trụ (Bát tự, Tử bình)
Lấy can chi của trụ ngày để tra các chi khác trong Tứ trụ . Phàm can chi ngày trong mỗi giáp của bảng 60 giáp tí , các địa chi khác của Tứ trụ gặp như trên là tuần không. Ví dụ trụ ngày ất sửu là sau giáp tí một ngày nên nó thuộc tuần giáp tí, mười can trong tuần này vừa hết nhưng hai chi cuối cùng của 12 địa chi thì chưa đến lượt, nên tuần không. Hai chi tuần không đó chuyển vào tuần giáp sau ... Cứ như thế đến tuần thứ sáu thì các can chi mới vừa khớp và kết thúc ở quý hợi. Lục giáp không vong là hung nhiều, cát ít. Cát tinh gặp không vong là không tốt, nhưng ngược lại kị thần không vong thì không còn là hại nữa. Cái được sinh vượng, khí chất quảng đại phần nhiều thu được những danh lợi bất ngờ, nếu gặp tử tuyệt thì thành công nhiều mà thất bại cũng lắm, phiêu bạt giang hồ.
Sao KÌNH DƯƠNG trong môn Tứ trụ (Bát tự, Tử bình)
Lấy can ngày để tra địa chi trong Tứ trụ .
Can ngày giáp gặp chi mão ; can ngày ất gặp chi dần ; Can ngày bính mậu gặp chi ngọ ; Can ngày đinh , kỷ gặp chi tị ;Can ngày canh gặp chi dậu ; can ngày tân gặp chi thân ; Can ngày nhâm gặp chi tý ; can ngày quý gặp chi hợi ;
Phàm can ngày trong Tứ trụ gặp các chi như trên là có kình dương. Mệnh gặp phải kình dương là hung nhiều cát ít. Lộc quá mức thì sinh kình dương tức là thành công đến cực đỉnh mà vẫn chưa rút lui thì sẽ vượt quá giới hạn cho nên sẽ bị tổn thương. Nếu là người có quý mệnh để áp chế sát thì kình dương kết hợp tướng tinh sẽ tạo thành uy phong không cản nổi. Thân nhược gặp kình dương thì nó có thể giúp trợ thân, nhưng mệnh có kình dương thì nguy hiểm như làm bạn với hổ. Nếu kình dương bị hợp, bị xung, bị hình hoặc lâm tuế vận thì dễ bị tai nạn nghiêm trọng Có một số sách cổ đặt kình dương của can âm vào vị trí trước lộc, tức kình dương của ất
ở thìn, kình dương của đinh, kỷ ở mùi, kình dương của tân ở tuất, kình dương của quý ở sửu, như thế là sai. Vì ý chính của kình dương không giống như cuối lộc là phúc ( ở vào đất lâm quan ) mà kình dương là lâm quan trước đế vượng một ngôi. Lý âm dương của van vật là ác tuy cực thịnh nhưng nếu chưa đầy thì chưa đến cực điểm, đầy thì sẽ tràn ra cho nên đây là tai họa. Kình dương là hung mãnh đến cực điểm, thế tất không tránh khỏi chuyển sang mặt trái. Cách nhớ là chỗ nhật can đế vượng là kình dương.
Sao THIÊN Y trong môn Tứ trụ (Tử bình, Bát tự)
Lấy chi tháng để tra các chi khác trong Tứ trụ .
Chi tháng tí còn gặp hơi ; chi tháng sửu còn gặp tí. Chi tháng dần còn gặp sửu ; chi tháng mão còn gặp dần. Chi tháng thìn còn gặp mão ; chi tháng tị còn gặp thìn . Chi tháng ngọ còn gặp tị ; chi tháng mùi còn gặp ngọ . Chi tháng thân còn gặp mùi ; chi tháng dậu còn gặp thân . Chi tháng tuất còn gặp dậu ; chi tháng hợi còn gặp tuất .Phàm trong Tứ trụ lệnh tháng gặp những chi trên là có thiên y. Thiên y vượng là cát tinh, nó nắm quyền chữa các bệnh tật. Mệnh gặp thiên y là người có y thuật hoặc trong gia tộc có làm thuốc. Thiên y nhược thì không phải là sao tốt, người như thế nếu không bệnh tật thì thân thể cũng yếu đuối vô lực. Cách nhớ thiên y là chi trước chi tháng, ví dụ tháng dậu gặp chi thân là có thiên y.
Sao KIM THẦN trong môn Tứ trụ
Kim thần là Ất Sửu, kỉ Tỵ, Quý Dậu, tức ba nhóm can chi.
Kim thần lấy trụ ngày trụ giờ đều được . Căn cứ thực tiễn, trụ ngày gặp Kim thần, trường hợp trong Tứ trụ thiếu hoả, khi vận nhập vào hoả thì lập tức giàu sang. Điều đó nói lên trụ ngày gặp Kim thần cũng đúng. Do đó, cho dù là trụ ngày hay trụ giờ, chỉ cần lâm Kim thần thì đều là được .Kim không có Hỏa không thể thành vũ khí, nên Kim cần phải có hoả để luyện, do đó Kim gặp hành hoả thì phát. Trong Tứ trụ có hoả, nhưng không hành Hỏa thì hoả cục ban đầu đó không có lực, phải gặp Hỏa vận mới phát, cho nên có câu : " Kim thần gặp hoả, uy trấn biên cương". "Kim thần nhập hoả, phú Quý vang xa".
Kim thấy thuỷ thì trầm cho nên Kim thần gặp thuỷ là gặp tai vạ. Vận đến Kim thuỷ thì tai hoạ đến ngay, đi lên phương Bắc là xấu, có thể tai nạn rất nặng. Kim thần gặp tài là tốt, gặp tài vận là phát. Gặp tài vận đã tốt, gặp cả hoả nữa càng tốt hơn. Kim thần là Quý cách, gặp nó người đó không giàu thì sang, thông minh, hiếu học, có tài, nhưng Tính gấp, mạnh mẽ, khăng khăng làm một mình. Trong Tứ trụ Kim nhiều ( hoặc nạp âm Kim nhiều ) Thủy vượng là phá cách, chủ về hoạ nhiều mà thành công ít, không có tình nghĩa với lục Thân, anh em chia lìa, người vẤt vả khổ sở.
Sao KIM DƯ trong môn Bát Tự Tứ trụ Tử Bình
Lấy can ngày để ra các chi khác trong Tứ trụ .
Can ngày giáp gặp thìn, can ngày ất gặp tị ; can ngày bính, mậu gặp mùi ; can ngày đinh, kỷ gặp thân ; can ngày canh gặp tuất ; can ngày tân gặp hợi, can ngày nhâm gặp sửu, can ngày quý gặp dần. Kim là quý, dư là xe. Tứ trụ có kim là tượng xe vàng, ví dụ như quân tử ở quan thì được lộc, được thì đi xe ; thần dân lấy xe làm nghiệp để chở quan đi. Kim dư là cát tinh. Cách nhớ là ngôi của nó ở trước hai ngôi của nhật can lộc, ví dụ giáp lộc ở dần, nếu trong Tứ trụ có thìn tức là có kim dư.
(Thiệu)
Sao TRẠCH MÃ trong môn Tứ trụ
Lấy chi năm, chi ngày để tra các chi khác trong Tứ trụ .
Chi năm, chi ngày là dần, ngọ, tuất còn gặp thân ; Chi năm, chi ngày là thân ,
tý , thìn còn gặp dần ;
Chi năm, chi ngày là tị , dậu , sửu còn gặp hợi ; Chi năm, chi ngày là hợi, mão
, mùi còn gặp tỵ ;
Trạch mã có hung có cát. Phàm chi năm hoặc chi ngày tra thấy như trên là Tứ trụ
người đó có trạch mã. Trạch mã là hỉ, nhiều nhất là có tin mừng thăng quan tiến
chức, ít nhất cũng là thu được lợi trong sự vận động. Mã là kị, nhiều nhất là
bôn ba lao khổ, ít nhất là vất vả bận rộn. Mã gặp xung như tuấn mã được thúc
thêm roi, mã bị hợp hoặc bị hóa thì như mã bị trói. Mã tinh là thực thương nếu
gặp tài vận là hỉ, phát tài rất nhanh. Nhâm thân, quý dậu kiếm phong mã, người
có trụ ngày như thế là gặp mã tinh. Người xưa nói : "Đầu ngựa treo kiếm là
uy trấn biên cương" . Mã tinh ở trụ giờ thì thường được điều động đi xa,
ra nước ngoài,....
(Thiệu)
Sao QUỐC ẤN QUÝ NHÂN trong môn Tứ trụ (Tứ bình, Bát tự)
Giáp thấy Tuất, Ất thấy Hợi, Bính thấy Sửu, Đinh thấy Dần, Mậu thấy Sửu, Kỷ thấy Dần, Canh thấy Thìn, Tân thấy Tỵ, Nhâm thấy Mùi, Quý thấy Thân.
Quốc ân Quý nhân là lấy lộc can năm hoặc can ngày làm khởi điểm, ngôi thứ chín
trước lộc nếu gặp địa chi quốc ấn tức là có quốc ấn Quý nhân. Ví dụ Giáp lộc ở
Dần, ngôi thứ chín trước Dần là địa chi Tuất, nên Giáp thấy Tuất là quốc ân Quý
nhân.
Quốc ấn Quý nhân trong dự đoán nói chung ít dùng, nhưng người trong Tứ trụ có
quốc ấn Quý nhân và sinh vượng thì hầu hết làm chức to trong nhà nước hoặc nắm
quyền quản lý ở cơ quan. Sao này cũng có thể tham khảo để các cơ quan dùng tuyển
người giữ chức cao. Người Tứ trụ có quốc ấn, chủ về thành thực đáng tin, nghiêm
tức thanh liêm, quy củ, hành sự theo lẽ công, vui vẻ với mọi người , lễ nghĩa
nhân từ, khí chất hiên ngang. Nếu ấn gặp sinh vượng và có các cát tinh tương trợ,
không gặp xung, phá, khắc, hại thì không những có thể đứng đầu cơ quan mà còn
có khả năng tốt.
(Thiệu)
Sao TƯỚNG TINH trong môn Tứ trụ (Bát tự/Tử bình)
Lấy chi năm, chi ngày để tra những chi khác.
Chi năm, chi ngày là dần, ngọ, tuất còn gặp ngọ ; Chi năm, chi ngày là thân , tí , thìn còn gặp tí ;Chi năm, chi ngày là tỵ , dậu , sửu còn gặp dậu ; Chi năm, chi ngày là hợi , mão , mùi còn gặp mão ;
Phàm trong Tứ trụ gặp một trong bồn trường hợp trên là có tướng tinh. Tướng tinh vừa chủ về văn, vừa chủ về võ, có khả năng nắm quyền, được mọi người kính phục. Tướng tinh đi với mã tinh, đi với kình dương là hỉ, người như thế không phải là tướng soái thì cũng là cấp tương đương, lộc trọng quyền cao.
Tướng tinh giống như đại tướng ở trong quân, nên lấy vượng khí giữa ba chi hợp lại để làm tướng tinh. Ví dụ : dần, ngọ, tuất là tam hợp, trong đó ngọ ở ngôi giữa, gặp ngọ tức là có tướng tinh. Trong Tứ trụ có tam hợp cục đó mà còn gặp ngọ tức là có tướng tinh. Những trường hợp khác cũng hiểu tương tự.
Sao HOA CÁI trong Tứ trụ (Bát tự, Tử bình)
Lấy chi ngày, chi năm làm chuẩn để tra các chi khác trong Tứ trụ . Chi ngày, năm là dần, ngọ, tuất thấy tuất ;
Chi ngày, năm là thân , tý , thìn thấy thìn ; Chi ngày, năm là tí , dậu , sửu
thấy sửu ; Chi ngày, năm là hợi , mão , mùi thấy mùi ;
Phàm những người trong Tứ trụ tra được như trên là có sao hoa cái. Sao này chủ
về nghệ thuật, kỹ thuật, thường có duyên với mệnh lý, khí công, tôn giáo, võ
thuật, tăng đạo, v.v. Hoa cái là cách xưng hô tượng hình. Hình sao này như cái
tàng thường che phía trên chỗ vua ngồi, cho nên lấy trong bản kho của tam hợp địa
chi để làm hoa cái. Ví dụ lấy sửu trong tị dậu, sửu làm hoa cái, sửu là kim
kho. Phàm tị, hoặc dậu hoặc sửu thấy sửu là hoa cái.
(Thiệu)
Sao TỪ QUÁN, HỌC ĐƯỜNG trong môn Tứ trụ (Tử bình, Bát tự)
Từ quán : Giáp thấy Canh Dần, Ất thấy Tân Hợi, Bính thấy Ất Tỵ, Đinh thấy Mậu Ngọ, Mậu thấy Đinh Tỵ, kỉ thấy Canh Ngọ, Canh thấy Nhâm Thân, Tân thấy Quý Dậu, Nhâm thấy Quý Hợi, Quý thấy Nhâm Tuất.
Cách tra học đường, từ quán đều lấy can năm và can ngày làm chủ. Địa chi trong Tứ trụ gặp tức là có. Học đường, từ quán nạp ngũ hành cũng giống với ngũ hành can ngày, can năm.
Người có học đường Quý nhân ví dụ như người được học cao, nên gọi là văn tinh, tức chỉ về những viẹc công danh, học nghiệp. Phàm người có sao này nhập mệnh chủ về thứ bậc thì đỗ hoặc tiền đồ học nghiệp.
Người có từ quán Quý nhân là làm ở hàn lâm quán ( ví dụ ngày nay là làm ở Bộ Giáo dục ). Là những người học vấn tinh thông, văn chương giỏi. Những người học cao gọi là học đường chính vị, ví dụ người mệnh Kim thấy Tân Tỵ, vì Kim trường sinh ở Tỵ, nạp âm lại thuộc Kim.
Người được đi làm quan gọi là từ quán chính vị, ví dụ mệnh Kim gặp Nhâm Thân, Nhâm lâm quan ở Thân, Nhâm Thân nạp âm lại thuộc mệnh Kim. Những cái khác cách hiểu tương tự như thế.
Học đường, từ quán chủ về tú khí phát sinh, thông minh khéo léo, văn chương nổi tiếng, cuộc đời giàu sang. Nên được sinh vượng không nên bị khắc, hại, xung, phá. nếu có thiên Ất Quý nhân hoặc cát tinh phù trợ thì tốt, nếu không thì tài năng khó thì thố, ý chí bị bó buộc.
Sao VĂN XƯƠNG trong Tứ trụ
Cách tra là lấy can ngày, can năm làm chuẩn để tra các địa chi trong Tứ trụ .
Can ngày, năm giáp thấy tị ; Can ngày, năm ất thấy ngọ ; Can ngày, năm bính, mậu
thấy thân ; Can ngày, năm đinh, tị thấy dậu ; Can ngày, năm canh thấy hợi ; Can ngày, năm tân thấy tí ; Can ngày, năm nhâm
thấy dần ; Can ngày, năm hợi thấy mão ;
Những người trong Tứ trụ tra thấy như trên gọi
là có sao văn xương. Sao văn xương nhập mệnh thì thông minh hơn người . Trong Tứ
trụ kiêm có học đường thì chủ về học tập ưu tú, khí chất nho nhã, và còn có tác
dụng gặp xung hoá cát. Sao văn xương là
thực thần lâm quan, là chỗ trường sinh. Ví dụ giáp lấy bính làm thực thần, bính
lâm quan ở tị cho nên giáp lấy tị làm văn xương. Căn cứ nguồn gốc của sao văn
xương ta có thể tìm ra cách nhớ. Văn xương nhập mệnh chủ về thông minh hơn người
, gặp hung hóa cát. Tác dụng của nó tương tự như thiên đức, nguyệt đức, thiên Ất
Quý nhân. Xem kĩ văn xương Quý nhân ta thấy, cứ " thực thần" lâm quan
là có văn xương Quý nhân. Do đó mà gọi là văn xương tức thực thần kiến lộc. Người
văn xương nhập mênh thì khí chất thanh tao, văn chương cử thế. Nam gặp được thì
nội tâm phong phú, nữ gặp được thì đoan trang, ham học, ham hiểu biết, muốn
vươn lên, cuộc đời lợi đường tiến chức, không giao thiệp với kẻ tầm thường.
Trong thực tiễn, người có văn xương Quý nhân sinh vượng, thường đỗ đạt các trường
chuyên khoa, đại học, về đường học hành thi cử.
(Thiệu)
Sao PHÚC TINH QUÝ NHÂN trong Tứ trụ
Phàm Giáp, Bính gặp Dần hoặc Tý, Ất Quý gặp Mão hay Sửu, Mậu gặp Thân, Kỷ gặp Mùi, Đinh gặp Hợi, Canh gặp Ngọ, Tân gặp Tỵ, Nhâm gặp Thìn là có phúc tinh Quý nhân.
Nếu trong mệnh có phúc tinh thì chủ về cuộc đời phúc lộc dồi dào, có cả cách cục phối hợp thì còn nhiều phúc và sống lâu, vàng bạc đầy nhà. Người bình thường gặp được thì ít nhất cũng ngày ba bữa no ấm, cuộc sống vô lo. Sao này phần nhiều chỉ về bình an, có phúc chứ không ám chỉ sự giàu sang.
Sao LỘC THẦN trong Tứ trụ
Giáp lộc ở Dần, Ất lộc ở Mão, Bính Mậu ở Tỵ, Đinh kỉ ở Ngọ, Canh lộc ở Thân, Tân lộc ở Dậu, Nhâm lộc ở Hợi, Quý lộc ở Tý.
Cách tra, lấy can ngày làm chủ, địa chi của Tứ trụ thấy là có. Lộc là tước lộc, nhờ có thế lực mà được hưởng gọi là lộc. Lộc là nguồn dưỡng mệnh. Lộc ở chi năm gọi là tuế lộc, ở chi tháng gọi là kiến lộc, ở chi ngày gọi là chuyên lộc, ở chi giờ gọi là quy lộc. Người Thân vượng mà có lộc thì tài nên thấy khắc, lộc gặp Thân yếu thì tài kị thấy khắc. Lộc mã từ suy đến tử, kể cả tử tuyệt, nếu không có cát thần hỗ trợ thì nhất định phá tan sự nghiệp tổ tiên. Lộc sợ nhất là nhập không vong hoặc bị xung, nếu lấy nó làm dụng thần, không may nhập không vong hoặc bị xung lại không có cát thần giải cứu thì nhất định đói rách ăn xin, làm thuê, phiêu bạt khắp nơi. Nếu không bị như thế thì cũng không có danh vọng gì, có lộc như không. Lộc phạm xung gọi là phá lộc, như lộc Giáp ở Dần, gặp Thân là phá , khí tán không tụ, Quý nhân thì bị đình chức, tước quan, thường dân là phá , khí tan không tụ, Quý nhân thì bị đình chức, tước quan, thường dân thì cơm áo không đủ. Lộc gặp xung hoặc địa chi của tháng kiến lộc là nghèo đến mức không được hưởng nhà cửa cha mẹ để lại, hoặc rời bỏ quê hương, đi mưu sinh nơi khác. Lộc nhiều Thân vượng không nên gặp kình dương (kiếp tài), nếu không sẽ khắc vợ (chồng), khắc cha. Lộc còn là ngang hòa, nếu gặp đất quan vượng là tốt, nhật nguyên yếu mà có thần lộc giúp đỡ lại gặp ấn sinh cát tinh trợ giúp thì sẽ thành sự nghiệp, là người có phúc.Sự cát, hung, nên và không nên của thần lộc như sau :
Giáp lộc ở Dần, gặp Bính Dần là lộc phúc tinh, gặp Mậu Dần là lộc phục mã, cả hai đều tốt cả. Gặp Canh Dần là lộc phá , nửa tốt nửa xấu ; gặp Nhâm Dần là chính lộc, có kèm với tuần không, vong thì có nhiều khả năng đi theo đạo. Gặp Giáp Dần gọi là lộc trường sinh, đại cát.
At lộc ở Mão, gặp Mão gọi là lộc hỉ thần vượng, chỉ về cát ; gặp Đinh Mão là cắt ngang đường, chủ về hung. Gặp kỉ Mão là lộc tiến thần, gặp Tân Mão là lộc phá hay còn gọi là lộc giao, tức nửa tốt nửa xấu . Gặp Quý Mão có kèm theo thiên Ất là lộc chết, tuy sang nhưng nghèo suốt đời.
Bính lộc ở Tỵ, gặp kỉ Tỵ là lộc kho trời, chủ về cát. Gặp Tân Tỵ là đứt đường, coi như bị tuần không, vong. Gặp Quý Tỵ là lộc phục Quý thần, nửa tốt nửa xấu, gặp Ất Tỵ là lộc mã, gặp Đinh Tỵ là lộc khố, đều tốt.
Đinh lộc ở Ngọ, gặp Canh Ngọ là đứt đường giống như không vong, xấu. Gặp Nhâm Ngọ là lộc đức hợp , gặp Giáp Ngọ là lộc tiến thần, đều tốt. Gặp Bính Ngọ là mừng gặp lộc thần, gặp kình dương thì nửa tốt nửa xấu. Gặp Mậu Ngọ là gặp kình dương, phần nhiều là xấu.
Mậu lộc ở Tỵ, gặp kỉ Tỵ là lộc kho trời, tốt. Gặp Tân Tỵ là đứt đường, tuần không, vong. Gặp Quý Tỵ là gặp Quý thần, hoá hợp với Mậu Quý là được chức quan quan trọng ; gặp Ất Tỵ, trạch mã là lộc đồng hương; gặp Đinh Tỵ vượng là lộc kho , đều tốt.
Kỉ lộc ở Ngọ, gặp Canh Ngọ là đứt đường, tuần không, vong, gặp Nhâm Ngọ là lộc tử Quý, đều xấu. Gặp Giáp Ngọ là lộc hợp tiến thần, là tượng hiển đạt. Gặp Bính Ngọ là mừng gặp được lộc thần. Gặp Mậu Ngọ là lộc phục thần kình dương .
Canh lộc ở Thân, gặp Nhâm Thân là lộc đại bại, gặp Giáp Thân là lộc đứt đường, tuần không, vong, đều xấu. Gặp Bính Thân là lộc đại bại. Gặp Mậu Thân là lộc phục mã, trì trệ ; nếu gặp phúc tinh Quý nhân thì tốt. Gặp Canh Thân là lộc trường sinh, đại cát.
Tân lộc ở Dậu, gặp Quý Dậu là lộc phục thần, xấu. Gặp Ất Dậu là lộc bị phá , phần nhiều thất bại. Gặp Đinh Dậu là lộc Quý thần nhưng tuần không vong, nên chủ về những việc gian dâm, nếu gặp được hỉ thần thì tốt. Gặp kỉ Dậu là lộc tiến thần, gặp Tân Dậu là chính lộc, đều tốt. Nhâm lộc ở Hợi, gặp Ất Hợi là lộc thiên đức, gặp Đinh Hợi là lộc hợp Quý thần, gặp kỉ Hợi là lộc vượng, gặp Tân Hợi là lộc cùng với mã, đều là tốt cả. Gặp Quý Hợi là lộc đại bại, chủ về đói khó suốt đời.
Quý lộc ở Tý, gặp Giáp Tý là lộc tiến thần, chủ về đăng khoa tiến đạt. Gặp Bính Tý là lộc kình dương, nếu có cả thần tinh Quý nhân thì có quyền. Gặp Mậu Tý là lộc kình dương phục nấp, hợp với lộc Quý là chỉ tốt một nửa. Gặp Canh Tý ấn lộc là cát. Gặp Nhâm Tý là chính lộc kình dương , xấu.
Sao THIÊN ĐỨC, NGUYỆT ĐỨC trong Tứ trụ
1. Thiên đức quý nhân.
Tháng tí thấy tị, tháng sửu thấy canh, tháng dần thấy đinh, tháng mão thấy thân, tháng thìn thấy nhâm, tháng tị thấy tân, tháng ngọ thấy hợi, tháng mùi thấy giáp, tháng thân thấy quý, tháng dậu thấy dần, tháng tuất thấy bính, tháng hợi thấy ất. Phàm người tháng sinh tra thấy các can chi trong Tứ trụ như ở trên là có thiên đức quý nhân.
Cách tra thiên đức quý nhân của người sinh vào tháng tí, ngọ, mão, dậu là từ ngôi trương sinh của ngũ hành mà ra. Ngoài ra còn có cách gọi tháng tí gặp quẻ tốn thìn là thủy đức, vì nguồn xuất thuỷ quy mộ về cung tốn ; tháng mão gặp quẻ khôn mùi là mộc đức, vì nguồn xuất mộc quy mộc về cung khôn ; tháng ngọ gặp quẻ càn tuất là hoả đực, vì nguồn xuất hỏa quy mộ về cung càn ; tháng dậu gặp quẻ cấn sửu là kim đức, vì nguồn xuất kim quy mộ về cung cấn, tức là lấy ngũ hành dương vượng, chính ngôi phối với mộ, tức là quẻ của bản cung mà ra. Thiên đức chỉ dùng địa chi , không dùng thiên can, cho nên lấy bốn quẻ trên. Trong kiểm thực tế lấy chính ngôi trường sinh để xác định tháng tí, ngọ, mão, dậu còn chia ra thành tị, hợi, thân, dần là khá chuẩn. Độc giả có thể căn cứ vào thiên, nguyệt đức của những người sinh vào bốn tháng trên, xem xét quá trình gặp hung hóa cát của họ để kiểm nghiệm.
2. Nguyệt đức quý nhân
Lấy chi tháng làm chủ để tra các thiên can trong Tứ trụ . Sinh các tháng dần, ngọ, tuất thấy bính ;
Sinh các tháng thân , tí, thìn thấy nhâm ; Sinh các tháng hợi, mão, mùi thấy giáp ; Sinh các tháng tị, dậu, sửu thấy canh ;
Phương pháp nhớ cách tra nguyệt đức là căn cứ vào khí của tam hợp , ví dụ dần, ngọ, tuất thuộc hỏa thì lấy bính hỏa làm đức ; thân, tí, thìn thuộc thuỷ thì lấy nhâm thuỷ làm đức ; tí, dậu, sửu thuộc kim thì lấy canh kim làm đức ; hợi, mão, mùi thuộc mộc thì lấy giáp mộc làm đức để quy nạp. Phàm các tháng trong cục gặp can dương vượng khí đều là gặp nguyệt đức .
Hai quý nhân thiên đức và nguyệt đức đều chủ về người có cuộc đời không nguy hiểm. Thiên đức quý nhân là cát tinh phúc tường, tính tình nhân từ đôn hậu, cuộc đời phúc nhiều, ít nguy hiểm, gặp hung hóa thành cát, hóa hiểm thành an, như là có thần bảo hộ. Nguyệt đức quý nhân là cát tinh phúc thọ. Trong Tứ trụ có cả thiên, nguyệt đức là người có năng lực gặp hung hóa các rất mạnh, gặp được cát thần thì càng thêm tốt, gặp phải hung thần cũng bớt xấu rất nhiều, nhưng gặp phải xung khắc thì vô dụng.
Sao THÁI CỰC QUÝ NHÂN trong Tứ trụ
Sinh Giáp Ất tìm trong Tý Ngọ. Sinh Bính Đinh thì gặp gà thỏ. Mậu Kỷ hai can gặp tứ Quý. Canh Tân Dần Hợi lộc dồi dào. Nhâm Quý gặp Tỵ Thân tốt đẹp.
Được như trên phúc lộc tuôn về. Sách nói : " Thái cực, thái là ban đầu, là bắt đầu, vận hình thành ở giai đoạn đầu là thái cực, là nhất định thành, nhất định kết quả. Vật có chỗ quy tụ về gọi là cực, tức tạo hoá duy trì cho sự thuỷ chung, nên gọi thái cực là Quý nhân vậy. Mộc Giáp Ất được tạo ra ở Tý, nhờ khảm Thủy mà sinh và kết thúc ở Ngọ, đó là do ly hoả đốt mà chết. Hỏa của Bính Đinh ra đời ở chấn Mão, sau được tàng dấu ở đoài Dậu. Kim của Canh Tân được Dần nên Kim sinh ở cấn, nhờ gặp Hợi nên Kim được tôn Quý ở càn. Thuỷ của Nhâm Quý đầu tiên sinh ra nhờ Thân, sau đó được Tỵ dung nạp".Đất nứt ở Đông Nam, bốn bể rãnh mương đều chảy về ngôi tốn, tức là ý có thuỷ chung. Mậu Kỷ là Thổ mừng sinh ở Thân, được Thìn Tuất Sửu Mùi là bốn kho chính, tức là Quý nhân gặp được sẽ có thần phúc phù trợ, còn gì hơn mà không tốt đẹp. Mệnh người gặp được thái cực Quý nhân là chủ về thông minh hiếu học, tàng ẩn hỉ thần, chăm chỉ dụng công. Đặc biệt đoán về học hành, chức nghiệp, hỉ tinh, tướng mặt, Tứ trụ, Bát quái, phong thuỷ âm dương thì thái cực Quý nhân rất quan trọng. Người gặp nó có Tính cách chính trực, làm việc chuyên chú, có đầu có đuôi, nếu được sinh vượng, lại có thái cực Quý nhân cát tinh phù trợ thì ý chí hiên ngang, phúc thọ song toàn, nếu không phải quan cao trong triều đình thì cũng là người giàu sang giữa muôn dân. Cách tra thái cực Quý nhân cũng giống tra thiên Ất Quý nhân, nhưng không gắn với thuyết thai nguyên và cung mệnh.
Sao Thiên Ất quý nhân trong Tứ trụ
Giáp Mậu đi với trâu, dê ; Ất kỉ đi với chuột, khỉ. Bính Đinh là lợn gà ; Nhâm Quý là thỏ ,rắn. Canh Tân hổ, ngựa, đó là phía Quý nhân.
Thiên Ất Quý nhân là trong năm tháng ngày giờ sinh gặp Quý nhân, Quý nhân là cát tinh, là sao giải ách, sao cứu trợ. Trong Tứ trụ có Quý nhân là gặp việc có người giúp, gặp tai ách có người giải cứu, là sao gặp hung hóa thành cát. Cho nên sách nói : " Thiên Ất là thần trên trời, trong tử vi luôn ở bên ngoài cửa, sắp hàng ngang, thái Ất làm những việc của thiên hoàng đại đế, nên tên gọi là thiên Ất. Thần thiên Ất tôn Quý, tất cả mọi hung sát đều phải lánh xa.". Còn nói " Thiên Ất Quý nhân gặp sinh vượng, thì diện mạo hiên ngang, Tính tình nhanh nhẹn, lý lẽ phân minh, không thích mẹo vặt, mà thẳng thắn, người ôn hòa đức độ, được mọi người yêu mến khâm phục. Thái Ất mà tử tuyệt thì Tính tình cố chấp, có thái Ất sẽ đỡ. Nếu thái Ất đi với kiếp sát thì có uy, đa mưu túc kế. Thái Ất đi với quan phù thì văn chương bay bổng, lời lẽ hùng biện. Thái Ất đi với kiến lộc thì văn chương thành thật, ân huệ khắp nơi, là người quân tử".Thiên Ất Quý nhân là thần tốt nhất trong mệnh. Ai có nó thì vinh hiển, công danh sớm đạt, dễ thăng quan. Nếu mệnh thừa vượng khí thì có thể đạt đến danh tướng, công hầu. Đại tiểu vận hành đến năm đó thì nhất định sẽ được thăng quan. Tất cả những gì gặp được cái này đều là điềm tốt. Phàm người ta đến lúc gặp được thái Ất Quý nhân thì gặp tin vui, mọi việc đều thuận. Thiên Ất Quý nhân lại gặp được thiên đức, nguyệt đức thì Quý vô cùng, người đó thông minh trí tuệ. Quý nhân toạ vào can ngày thì suốt đời thanh cao. Tóm lại trong Tứ trụ có thiên ất Quý nhân thì thông minh tháo vát, gặp việc linh lợi, gặp hung hóa cát, là người hào phóng,hay vui vẻ giúp người, tâm tư hiền lành, giao thiệp rộng rãi, được mọi người ủng hộ. Thiên Ất Quý nhân tốt nhất là được sinh vượng, được cát tinh trợ giúp,kị nhất là gặp hình xung khắc hại hoặc đất không, vong, tử, tuyệt. Người gặp thế là họa, nguồn phúc giảm đi, suốt đời vất vả.
Thìn Tuất là chỗ cao nhất, Quý nhân không gặp nên hai chi Thìn Tuất không có thiên Ất Quý nhân.
Cách tra thiên Ất Quý nhân như can năm, can ngày đều tra được , lấy can năm tra bốn chi trong Tứ trụ xem có gặp Quý nhân không. Xong lại lấy can ngày tra bốn chi trong Tứ trụ xem có gặp Quý nhân không. Căn cứ ví dụ cổ và ví dụ thật, chỉ cần Quý nhân hai địa chi trong Tứ trụ xuẤt hiện tức là đều có sao Quý nhân.
Còn nếu can năm, can ngày, thai nguyên, cung mệnh đều không có Quý nhân thì khi gặp việc xấu hoặc đại nạn sẽ khó mà khắc phục. Lúc đó phải dựa theo can năm, can ngày của tương khắc người đó thiếu Quý nhân phải tìm những dao Quý nhân gần đó giúp đỡ thì may ra sẽ đỡ được phần nào. Nếu vốn có Quý nhân thì dù biết được hay không, khi gặp khó khăn là có người giúp. Người giúp đó trong Tứ trụ gọi là Quý nhân. Ví dụ bị chết đuối mà có người giúp, người giúp đó trong Tứ trụ là Sửu, Mùi thì ân nhân ngoài đời thường là người tuổi Sửu hoặc tuổi Mùi.
Thứ Tư, 7 tháng 11, 2018
Coi bói
Thứ Tư, 31 tháng 10, 2018
Vị Tế - "Ưu trung vọng hỷ chi tượng"
Nguồn hình: Google search |
Thứ Ba, 23 tháng 10, 2018
Thông báo về việc thay đổi đầu số điện thoại
Thứ Hai, 22 tháng 10, 2018
Ngày số lành đến
Thứ Sáu, 19 tháng 10, 2018
Những việc bạn có thể nên hỏi
2. Tình hình công việc - công danh sự nghiệp: Có thể hỏi bất cứ điều gì, từ dự án kinh doanh, vấn đề thất nghiệp và xin việc sắp tới, cho đến hỏi đơn giản là cuộc đời mình đường công danh thế nào.
3. Tình hình tiền bạc, tài chính trong thời gian tới: Có thể hỏi liệu sắp tới có được tăng lương không, hay định bỏ vốn đầu tư nhà hàng, quán ăn gì đó liệu có tốt không.
4. Chuyện tình duyên, hôn nhân, sanh con đẻ cái: Có thể hỏi sau này mình lấy chồng là người đàn ông như thế nào, đẹp xấu ra sao, bao giờ thì gặp...Cho đến việc xem mệnh hai vợ chồng có hợp không, nếu không thì cần làm gì...Cho đến điều quan trọng là có nên ly hôn hay không...
5. Tình hình gia đạo : Có thể hỏi liệu sự bất hòa giữa ba mẹ có giải quyết được không, hay tranh chấp giữa nhà mình và bà con dòng họ có dàn xếp được không...
6. Các việc khác: tìm đồ bị mất, tìm tung tích người thân, tìm giấy tờ bị mất; hỏi có duyên với đạo, đi tu được không; hỏi xuất hành đi đâu đó có tốt không... Cho đến những câu hỏi "trời ơi đất hỡi" nào cũng được !
Các câu hỏi có thu phí tùy câu tùy hỷ, dù có thể trả lời qua email hoặc đthoại nhưng tốt nhất nên đến trực tiếp gặp thầy Đông Quang vì có khi cần xem tướng và dặn dò chi tiết hơn.
Liên hệ số : 083 313 9692 hoặc email dongquangus@gmail.com để đặt lịch hẹn vì thầy đông khách, phải sắp xếp trước.
Thứ Ba, 9 tháng 10, 2018
Lấy quẻ Dịch xem đang bị bệnh gì vậy ?
Thê tài Tý thủy.. X
Huynh đệ Tuất thổ.. ứng
Thê tài Hợi thủy. f. Tử Thân kim
Huynh đệ Sửu thổ..
Quan quỷ Mão mộc. thế
"六五: 賁于丘園, 束帛戔戔, 吝, 終吉.
Lục ngũ: bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên, lận, chung cát.
Nguồn hình : Google Search |
Thứ Ba, 2 tháng 10, 2018
Mệnh Vua
Chủ Nhật, 23 tháng 9, 2018
Tết Trung Thu
Đối với người xưa, mùa Thu cũng là mùa thu hoạchhạt giống về cất để dành sang Xuân lại gieo trồng. Gọi chữ Thu trong mùa Thu là nghĩa như thế.
Khi đến giữa tháng 8, cũng là lúc không khí thu hoạch hạt giống trở nên sôi động, vui vẻ, người ta làm bánh Trung Thu ăn vào đêm trăng Rằm. Chọn ngày rằm làm Tết Trung Thu là cho dễ nhớ, khỏi mắc công tính lịch, cứ tới trăng tròn tháng 8 là được.
Vỏ bánh tượng trưng cho đất, ruột bánh phần lớn là các loại hạt lớn nhỏ khác nhau tượng trưng cho những hạt giống đang nằm trong lòng đất, vị mặn pha lẫn ngọt là đầy đủ Âm Dương, lòng trứng đỏ ở giữa là hơi ấm của thần khí tượng trưng mong ước của con người rằng các hạt giống ấy được Đất Trời bảo bọc ấm áp để vẫn sống tốt đến mùa Xuân sẽ mọc trở lại xanh tươi cho con người được mùa mới tươi tốt...
Bánh Trung Thu là thể hiện sự kỳ vọng cho mầm sống tương lai. Dân gian gọi Tết Trung Thu là Tết cho trẻ con cũng là ý đó.
Thứ Tư, 19 tháng 9, 2018
Rốt cuộc tại sao nên học Kinh Dịch ?
Kinh Dịch chứa đựng tri thức trong nhiều đời nhờ được nhiều thế hệ vun bồi, đóng góp vì thế mà có đủ dữ liệu cho mọi người trong mọi lĩnh vực. Ai biết tận dụng khai thác sẽ thu gặt được nhiều lợi ích trong cuộc sống.
Kinh Dịch là sản phẩm của ai không quan trọng bởi cái gì là chân lý thì ở đâu cũng như nhau, không là của ai mà không ai không được phép sở hữu. Chân lý không phải do con người tạo ra, con người chỉ phát hiện và tìm cách sống đúng với chân lý mà thôi nên không có sở hữu riêng. Kinh Dịch vốn là sách, lâu dần trở thành tác phẩm "keo chốt" lại thành một thể tri thức cực kỳ súc tích, đến mức được gọi là Kinh là vậy.
Nếu ai muốn tìm Đạo thì Kinh Dịch cũng có. Kinh Dịch chẳng nói gì trái đạo lý nhân ngãi ở đời cả. Ai muốn tìm Thuật để vận hành công việc, tìm kế sinh nhai, tìm phương y thuật,... thì Kinh Dịch cũng có. Kinh Dịch ra đời là vì nhu cầu cuộc sống. Điểm đặc biệt của Kinh Dịch là không có sự mâu thuẫn giữa Đạo và Thuật. Tất cả được dung hòa, cho ra giải pháp tối ưu. Vấn đề là ở người dùng trình cao hay thấp mà thôi...Trình cao hay thấp tùy ở việc học. Học thì có tự học và có thầy dẫn. Việc học cũng giống như đi vào khu rừng kiến thức vậy, vô cùng mênh mông, nếu tự học mà không biết cách sẽ đi lạc, mãi có khi cả đời vẫn không hiểu nổi. Nếu có thầy dẫn đường sẽ biết lối nào, chọn kiến thức gì, sách vở ra sao, sẽ mau hiểu biết, dù ở giữa rừng mà vẫn không sợ lạc...
Thứ Ba, 11 tháng 9, 2018
Vợ lớn và Vợ bé
Nguồn hình: Google search |